Việt Nam đáp ứng cam kết giảm tiêu thụ HCFC

21/12/2023
Xem cỡ chữ - + Đọc bài viết

Ngày 18/12, tại Hà Nội, Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp cùng Ngân hàng Thế giới (WB) tổ chức Hội thảo Tổng kết Dự án Kế hoạch quản lý, loại trừ các chất HCFC của Việt Nam giai đoạn 2 (HPMP2). 

Dự án do Quỹ Đa phương thi hành Nghị định thư Montreal tài trợ, ủy thác Ngân hàng Thế giới quản lý. Mục tiêu nhằm giúp Việt Nam giảm 35% mức tiêu thụ cơ sở các chất gây suy giảm tầng ô-dôn HCFC, từ 3.600 tấn/năm xuống còn 2.600 tấn/năm trong giai đoạn 2020 – 2024 theo lộ trình thực hiện Nghị định thư Montreal.

Trong giai đoạn 2018 - 2023, dự án đã triển khai nhiều hoạt động hỗ trợ quản lý, loại trừ HCFC, tập trung vào các lĩnh vực: Điều hòa không khí, sản xuất thiết bị lạnh, sản xuất xốp cách nhiệt, dịch vụ bảo dưỡng sửa chữa thiết bị lạnh và hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi công nghệ, loại trừ sử dụng các chất HCFC. Kết quả đến nay, Việt Nam đã đáp ứng cam kết giảm 35% mức tiêu thụ cơ sở. Lượng nhập khẩu từ năm 2020 đều dưới 2.600 tấn/năm. 

Chia sẻ rõ hơn về các kết quả chính của dự án, ông Tăng Thế Cường, Cục trưởng Cục Biến đổi khí hậu (Bộ TN&MT) cho biết: Dự án đã đạt được nhiều kết quả rất tích cực, đóng góp cho công tác bảo vệ tầng ô-dôn ở Việt Nam, giúp Việt Nam thực hiện các mục tiêu tham gia Công ước Vienna và Nghị định thư Montreal.

Cụ thể, về loại trừ tiêu thụ HCFC-22 (R-22), Dự án đã hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất điều hòa không khí duy nhất của Việt Nam và một số doanh nghiệp sản xuất thiết bị lạnh chuyển đổi công nghệ không sử ga R-22. Từ ngày 7/1/2022, Việt Nam đã cấm nhập khẩu điều hòa không khí sử dụng ga R-22.

Về loại trừ hoàn toàn tiêu thụ HCFC-141b trộn sẵn trong polyol trong lĩnh vực sản xuất xốp cách nhiệt, Dự án đã hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi hoàn toàn sang công nghệ sử dụng cyclo pentane. Từ ngày 7/1/2023, Việt Nam đã quy định cấm nhập khẩu HCFC-141b trộn sẵn trong polyol.

Cùng với hoàn thành nghĩa vụ giảm 35% lượng tiêu thụ cơ sở các chất HCFC trong giai đoạn 2020-2024, với mức nhập khẩu dưới 2.600 tấn/năm, Việt Nam đã giảm lượng phát thải khí nhà kính từ việc sử dụng các công nghệ thay thế không có tiềm năng làm suy giảm tầng ô-dôn và tiềm năng nóng lên toàn cầu thấp. Các công nghệ thay thế trong các lĩnh vực đều là công nghệ không làm suy giảm tầng ô-dôn, ít phát thải (cyclo pentane, NH3, CO2).

 

Trong 5 năm qua, nhiều hoạt động tăng cường kiểm soát xuất nhập khẩu các chất HCFC và nâng cao nhận thức về bảo vệ tầng ô-dôn, bảo vệ môi trường cũng đã được triển khai tích cực.

Về đào tạo, tăng cường năng lực, Dự án đã phối hợp triển khai tập huấn cho 350 cán bộ hải quan về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu các chất được kiểm soát; đào tạo cho 188 giảng viên nguồn từ các cơ sở giáo dục nghề nghiệp và hơn 3.200 kỹ thuật viên về quản lý rò rỉ và nguyên tắc thực hành tốt trong lắp đặt, bảo dưỡng và sửa chữa thiết bị lạnh và điều hòa không khí. Bên cạnh đó, cung cấp 110 bộ thiết bị giảng dạy và 300 bộ thiết bị sửa chữa cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng thiết bị lạnh và điều hòa không khí trên cả nước…

Theo ông Tăng Thế Cường, những kết quả trên có được nhờ sự hỗ trợ tích cực của các chuyên gia Ngân hàng Thế giới, sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ, ngành và các cơ quan liên quan như Tổng cục Hải quan (Bộ Tài chính), Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (Bộ Khoa học và Công nghệ), Hội Khoa học Kỹ thuật lạnh và Điều hoà không khí Việt Nam, Viện Khoa học và Công nghệ Nhiệt - Lạnh và Trường Cơ khí (Đại học Bách khoa Hà Nội), các Hội, Chi hội điện tử và điện lạnh của các địa phương, các trường cao đẳng và trung cấp nghề đào tạo về kỹ thuật lạnh và điều hòa không khí, các chuyên gia trong nước và quốc tế. Đặc biệt, các doanh nghiệp tham gia chuyển đổi công nghệ đã quyết tâm vượt qua khó khăn của đại dịch Covid-19 và những diễn biến của thực tiễn để triển khai kịp thời các hoạt động. 

“Sau khi chuyển đổi công nghệ, có doanh nghiệp đã mở rộng và phát triển thị trường, xuất khẩu sản phẩm sản xuất theo công nghệ mới sang các nước trong khu vực, bảo đảm được các tiêu chí môi trường và khí hậu. Các quy định pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ tầng ô-dôn dần được kiện toàn và bắt đầu đi vào cuộc sống” ông Tăng Thế Cường chia sẻ.

Thông qua Dự án, Cục Biến đổi khí hậu đã xây dựng và trình ban hành Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13334:2021 về xốp cách nhiệt polyuretan (PU) sử dụng chất trợ nở dễ cháy - Yêu cầu về an toàn trong sản xuất áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất xốp cách nhiệt PU sử dụng chất trợ nở có tính cháy (Quyết định số 1500/QĐ-BKHCN ngày 08/6/2021 của Bộ Khoa học và Công nghệ); xây dựng dự thảo chương trình đào tạo về thu hồi môi chất lạnh và phương pháp thực hành tốt để giảm rò rỉ môi chất lạnh ra môi trường gửi Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp xem xét, tích hợp vào công tác đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp; xây dựng dự thảo tiêu chuẩn về an toàn trong sản xuất và lắp đặt điều hòa không khí treo tường sử dụng R-32 đề xuất Bộ Khoa học và Công nghệ ban hành.

Ông Ahmed Eiweida, Trưởng Ban phát triển bền vững, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đánh giá cao nỗ lực của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong thời gian qua. Dự án đã giúp nâng cao năng lực cho các bên liên quan, đồng thời, để lại nhiều bài học thực tiễn quan trọng đóng góp cho lộ trình quản lý, loại trừ các chất làm suy giảm tầng ô-dôn HCFC, các chất có tiềm năng làm nóng lên toàn cầu cao HFC trong thời gian tới.

Tại Hội thảo, các đại biểu đã chia sẻ về kết quả thực hiện Nghị định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn và Dự án HPMPII; Định hướng triển khai Nghị định thư Montreal trong thời gian tới và các yêu cầu về quản lý nhà nước. 

Tiếp nối những kết quả đã đạt được và tiếp tục lộ trình thực hiện Nghị định thư Montreal, Cục Biến đổi khí hậu đã phối hợp với Ngân hàng Thế giới, Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc nghiên cứu những vấn đề trọng tâm, các lĩnh vực ưu tiên để tham mưu đáp ứng việc loại trừ các chất được kiểm soát.

Việt Nam đã gửi Quỹ đa phương thi hành Nghị định thư Montreal đề xuất Dự án Quản lý bền vững các chất được kiểm soát theo Nghị định thư Montreal (KIP I và HPMP III). Nội dung trọng tâm bao gồm: Tiếp tục loại trừ tiêu thụ các chất HCFC trong lĩnh vực dịch vụ bảo trì, sửa chữa thiết bị lạnh và điều hòa không khí; Hỗ trợ cho việc tuân thủ nghĩa vụ giữ mức tiêu thụ ở mức cơ sở vào năm 2024 và loại trừ 10% lượng tiêu thụ cơ sở các chất HFC vào năm 2029.