Hiện nay, ở Việt Nam các loài sinh vật ngoại lai, đặc biệt là các loài sinh vật ngoại lai xâm hại đã và đang đe dọa đến đa dạng sinh học nói chung và ở khu vực Hà Nội nói riêng. Sinh vật ngoại lai xâm hại là loài ngoại lai lấn chiếm nơi sinh sống hoặc gây hại đối với các loài sinh vật bản địa, làm mất cân bằng sinh thái tại nơi chúng xuất hiện và phát triển. Sinh vật ngoại lai xâm hại có mặt trong tất cả các nhóm phân loại chủ yếu, bao gồm các loài vi rút, nấm, tảo, rêu, dương xỉ, thực vật cao, động vật không xương sống, cá, lưỡng cư, bò sát, chim và thú,... Sự xâm lấn của sinh vật ngoại lai có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều loài, tác động tiêu cực tới kinh tế - xã hội và sức khỏe của con người.
Sinh vật ngoại lai có thể xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, như: theo con đường nhập khẩu có chủ đích phục vụ công tác nuôi, trồng, sản xuất, kinh doanh hoặc du nhập theo con đường tự nhiên và không chủ đích của con người. Nó có thể đi theo con đường tự nhiên như theo gió, dòng biển và bám theo các loài di cư, nhưng quan trọng hơn cả là do hoạt động của con người. Cùng với sự phát triển của giao thông vận tải và hoạt động thông thương, con người đã mang theo một cách vô tình hay hữu ý các loài sinh vật từ nơi này đến nơi khác, thậm chí đến những vùng rất xa quê hương của chúng. Nhiều loài được du nhập một cách có chủ ý cho các mục đích kinh tế, giải trí, khoa học nhưng do không được kiểm tra và kiểm soát tốt đã bùng phát và gây ra nhiều tác hại nặng nề. Trong thời gian gần đây, sinh vật ngoại lai xâm hại xuất hiện ngày càng nhiều và đã gây ảnh hưởng trực tiếp tới đa dạng sinh học, các ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, như: loài ốc Bươu vàng, Rùa tai đỏ, Tôm càng đỏ, cây Mai dương,... đã trở thành những loài ngoại lai xâm hại nguy hiểm, tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học, sự phát triển kinh tế và sức khỏe con người.
Với những lý do trên, Chi cục bảo vệ môi trường - Sở Tài nguyên và Môi trường Hà nội phối hợp với Trung tâm Tài nguyên môi trường và Biến đổi khí hậu xây dựng: “Atlat các loài ngoại lai trên địa bàn Thành phố Hà Nội” nhằm thống kê, đánh giá hiện trạng, thành phần loài, tập tính sinh học, khu vực phân bố trên địa bàn thành phố để các quận, huyện, xã , phường dễ dàng nhận biết để chủ động trong việc ngăn ngừa và kiểm soát các loại sinh vật ngoại lai trên địa bàn.
20.CÂY CỨT LỢN - Ageratum conyzoides (L.) L.
Họ Cúc (Asteraceae Bercht. & J.Presl)
Tên khác:Cây hoa cứt lợn, Cỏ cứt lợn, Cỏ cứt heo, Cỏ hôi, Bông
Nguồn gốc: Bắc Mỹ, Trung Mỹ và Caribê
Đặc điểm hình thái:
Cây thảo, hàng năm, cao 25-50 (100) cm, đôi khi nhỏ hơn 10 cm, với rễ chính không dễ thấy. Thân to, cỡ 4 cm đường kính, tại gốc, các nhánh phân từ giữa thân, nhánh có màu đỏ, hoặc màu xanh lá cây về phía đỉnh, được bao bọc bởi lông màu trắng, hoặc có lông dày. Lá đơn mọc đối; cuống lá 1-3 cm, có lông dày, màu trắng; phiến lá hình trứng trứng, hình bầu dục, hoặc hình chữ nhật, kích thước 3-8x2-5 cm; lá phía trên dần dần nhỏ hơn, thuôn dài, đôi khi tất cả lá nhỏ, kích thước 1x0,6 cm, cả hai mặt lông thưa màu trắng; gân phụ 3- 5, gốc lá tròn, mép lá có răng cưa to, đỉnh nhọn. Hoa có màu hồng, trắng hoặc tím. Cụm hoa dạng ngù, nhỏ, có 4-14 hoa; cuống cụm hoa dài 0,5-1,5 cm. Quả nhỏ
Đặc điểm sinh học, sinh thái:
Sinh học:
Là loài cây thân thảo, mọc hàng năm, cao 25 - 50 cm, thân mọc thẳng và được được bao phủ bởi các lông nhỏ màu trắng. Lá mọc đối, có lông, cuống lá dài và có các tuyến. Hoa mọc thành cụm, mỗi cụm mang 30 - 50 bông hoa và có khả năng tự thụ phấn. Hoa có màu hồng, trắng hoặc tím, cụm hoa dạng ngù. Quả bế và được phát tán nhờ gió. Hạt có tính hướng sáng và có thể tồn tại trong vòng 12 tháng. Mùa ra hoa, quả quanh năm không cố định
Sinh thái:
Cây cứt lợn có tính đa hình cao và khả năng thích nghi với nhiều điều kiện sinh thái khác nhau, mọc ở nhiều nơi có điều kiện khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới. Cây cứt lợn là loài cỏ dại có nhiều ở những khu vực đất nông nghiệp, đất bỏ hoang, ven đường, đồng cỏ, dọc theo hai bên các con đường mòn trong rừng, ở những khu đất phì nhiêu, độ ẩm cao, cả những nơi bị che bóng. Cây cứt lợn có thể mọc ở nơi có độ cao đến 2.400 m so với mực nước biển.
Cây cứt lợn là loại cỏ dại gây hại đối với nhiều loài cây hàng năm, lâu năm và cũng là vật chủ của nhiều tác nhân gây bệnh thực vật như virút xoăn vàng lá cây cà chua ở Tanzania.
Ngoài tác hại như vừa nêu, cây cứt lợn còn có công dụng dược liệu làm thuốc chữa viêm xoang mũi dị ứng, nấu nước gội đầu.
Loài này được liệt kê vào danh sách 100 loài sinh vật ngoại lai nguy hiểm nhất trên thế giới.
Phương pháp phòng trừ:
Biện pháp phòng ngừa, kiểm soát cây cứt lợn bao gồm: xới nhặt cỏ, phun thuốc trừ cỏ tiền nảy mầm như simazine, atrazine, diuron, oxadiazon, oxyfluorfen, methazole hoặc tinh dầu tách chiết từ cây bạch đàn.
Phân bố:
Thế giới:Được ghi nhận là loài ngoại lai xâm hại tại Ấn Độ (Himalaya).
Việt Nam:Phân bố rộng rãi tại 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam.
Hà Nội: Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Đông Anh, Gia Lâm, Hoài Đức, Mê Linh, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Sóc Sơn, Thạch Thất, Thanh Oai, Thanh Trì, Thường Tín, Ứng Hòa, thị xã Sơn Tây, Hà Đông, Hoàng Mai, Long Biên, Tây Hồ, Thanh Xuân, Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm.