NHỮNG LOÀI xâm hại TRONG thông tư LIÊN TỊCH SỐ 27/2013/TTLT-BTNMT-BNNPTNT CỦA BỘ Tài Nguyên và môi trường – BỘ nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngày 26/9/2013 – KEO GIẬU - Leucaena leucocephala (Lam.) de Wit.

Email :
Hiện nay, ở Việt Nam các loài sinh vật ngoại lai, đặc biệt là các loài sinh vật ngoại lai xâm hại đã và đang đe dọa đến đa dạng sinh học nói chung và ở khu vực Hà Nội nói riêng. Sinh vật ngoại lai xâm hại là loài ngoại lai lấn chiếm nơi sinh sống hoặc gây hại đối với các loài sinh vật bản địa, làm mất cân bằng sinh thái tại nơi chúng xuất hiện và phát triển. Sinh vật ngoại lai xâm hại có mặt trong tất cả các nhóm phân loại chủ yếu, bao gồm các loài vi rút, nấm, tảo, rêu, dương xỉ, thực vật cao, động vật không xương sống, cá, lưỡng cư, bò sát, chim và thú,... Sự xâm lấn của sinh vật ngoại lai có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của nhiều loài, tác động tiêu cực tới kinh tế - xã hội và sức khỏe của con người.
Sinh vật ngoại lai có thể xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, như: theo con đường nhập khẩu có chủ đích phục vụ công tác nuôi, trồng, sản xuất, kinh doanh hoặc du nhập theo con đường tự nhiên và không chủ đích của con người. Nó có thể đi theo con đường tự nhiên như theo gió, dòng biển và bám theo các loài di cư, nhưng quan trọng hơn cả là do hoạt động của con người. Cùng với sự phát triển của giao thông vận tải và hoạt động thông thương, con người đã mang theo một cách vô tình hay hữu ý các loài sinh vật từ nơi này đến nơi khác, thậm chí đến những vùng rất xa quê hương của chúng. Nhiều loài được du nhập một cách có chủ ý cho các mục đích kinh tế, giải trí, khoa học nhưng do không được kiểm tra và kiểm soát tốt đã bùng phát và gây ra nhiều tác hại nặng nề. Trong thời gian gần đây, sinh vật ngoại lai xâm hại xuất hiện ngày càng nhiều và đã gây ảnh hưởng trực tiếp tới đa dạng sinh học, các ngành kinh tế, đặc biệt là các ngành nông, lâm, ngư nghiệp, như: loài ốc Bươu vàng, Rùa tai đỏ, Tôm càng đỏ, cây Mai dương,... đã trở thành những loài ngoại lai xâm hại nguy hiểm, tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học, sự phát triển kinh tế và sức khỏe con người.
Với những lý do trên, Chi cục bảo vệ môi trường - Sở Tài nguyên và Môi trường Hà nội phối hợp với Trung tâm Tài nguyên môi trường và Biến đổi khí hậu xây dựng: “Atlat các loài ngoại lai trên địa bàn Thành phố Hà Nội” nhằm thống kê, đánh giá hiện trạng, thành phần loài, tập tính sinh học, khu vực phân bố trên địa bàn thành phố để các  quận, huyện, xã , phường dễ dàng nhận biết để chủ động trong việc ngăn ngừa và kiểm soát các loại sinh vật ngoại lai trên địa bàn.
 
21.KEO GIẬU - Leucaena leucocephala (Lam.) de Wit.),
Họ Đậu (Fabaceae Lindl.)
Tên khác: Cây Keo giậu, Keo đậu
Nguồn gốc: Mêxicôvà Trung Mỹ.
 
Đặc điểm hình thái:
Cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, cao 2-6 m. Thân nhẵn đường kính thân 5- 50 cm. Lá kép lông chim 4-8 (15) cặp,trục lá dài 5-9; phiến lá hình bầu dục rộng, kích thước 7-13x1.5-3 mm; gân lá mờ khó nhận, gốc hình nêm, mép nguyên, đỉnh nhọn; lá chét có kích thước 9-16 mm x 2-4,5 mm, gần như không có cuống và mọc đối xứng. Cụm hoa đầu là 1 hoặc 2, hoa mọc ở nách lá, 2-3 cm; cuống 2-4 cm; lá bắc sớm. Hoa trắng. Đài cỡ 3 mm, bên ngoài không lông, có lông thưa tại đỉnh, 5 răng. Cánh hoa hẹp cỡ. 5 mm, bên ngoài dậy thì. Hoa mọc thành cụm kích thước 12-21 mm, màu trắng kem, mỗi hoa mang 10 nhị đực, dài 7 mm. Quả mọc thành cụm dày đặc, kích thước dài 11-19 cm và rộng 1,5-2,1cm, dẹt, tự mở khi chín, mỗi quả mang 8-18 hạt. quả thẳng, phẳng, kích thước 10-18×1,4-2 cm, cuống quả 3 cm, có mũi nhọn, cứng. Hạt 6-25, nâu, bóng, hình bầu dục hẹp, phẳng, kích thước 6-9×3-4,5 mm.
Đặc điểm sinh học, sinh thái:
Sinh học:
Chi Keo giậu Leucaena được phân biệt với các loài họ Đậu ở chỗ bao phấn có các sợi lông nhỏ, có thể nhìn thấy bằng kính lúp. Keo giậu có đặc điểm khác biệt so với các loài khác cùng chi về đặc điểm có các lá chét và quả lớn mọc thành các cụm 5-20 quả. Keo giậu không có gai và có kích thước từ nhỏ tới trung bình, cao khoảng  -15 m, đường kính thân 5- 50 cm. Lá kép lông chim hai lần và có các tuyến hình tròn ở gốc lá. Lá chét có kích thước 9-16 mm x 2-4,5 mm, gần như không có cuống và mọc đối xứng.
Sinh thái:
Keo giậu được xem là loài sống ở những nơi tán mở, nhiều ánh sáng, đất bạc màu. Keo giậu chưa được ghi nhận có khả năng xâm hại vào các khu rừng có tán kín. Keo giậu thích ứng tốt khi lượng mưa dao động từ  500 - 3.500 mm và mùa khô dài 6 - 8 tháng; Keo giậu thích nghi tốt với điều kiện vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt những nơi có mùa khô.Tại một số nơi, Keo giậu có thể mọc thành rừng cây bụi thuần loài lấn át thay thế rừng cây bản địa và đe dọa các loài đặc hữu. Mặc dù không gây tác động rõ rệt tới đa dạng sinh học nhưng các bụi cây này mọc dày đặc có thể làm cản trở giao lưu và kiếm ăn của các loài động vật,...
Phương pháp phòng trừ:
Khi Keo giậu đã thiết lập được quần thể thì rất khó có thể tiêu diệt vì chúng có khả năng tái sinh mạnh mẽ sau khi chặt, do vậy biện pháp tỏ ra có hữu hiệu là sau khi chặt bỏ thân cây rồi xử lý gốc cây bằng cách phun dầu diesel hoặc hóa chất. Hạt Keo giậu có khả năng sống trong đất đến 20 năm nên cần có biện pháp xử lý thích hợp.
Loài này được liệt kê vào danh sách 100 loài sinh vật ngoại lai nguy hiểm nhất trên thế giới.
Phân bố:
Thế giới:Được ghi nhận là loài ngoại lai xâm hại ở hơn 20 quốc gia thuộc vùng nhiệt đới, trong đó có Úc.
Việt Nam:Phân bố rộng khắp trên cả nước, nhiều nhất tại các tỉnh vùng Nam Trung Bộ (như Khánh Hòa).
Hà Nội: Ba Vì, Chương Mỹ, Đan Phượng, Đông Anh, Gia Lâm, Hoài Đức, Mê Linh, Mỹ Đức, Phú Xuyên, Phúc Thọ, Quốc Oai, Sóc Sơn, Thạch Thất, Thanh Oai, Thanh Trì, Thường Tín, Ứng Hòa, thị xã Sơn Tây, Hoàng Mai, Long Biên, Bắc Từ Liêm, Nam Từ Liêm.