Ngày 16/9, tại trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đã chủ trì cuộc họp của Hội đồng thẩm định Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Phát biểu khai mạc, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành nhấn mạnh, Quy hoạch tài nguyên nước nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 là quy hoạch ngành quốc gia lần đầu tiên được lập trong lĩnh vực tài nguyên nước, định hướng tổng thể cho các quy hoạch ngành quốc gia, vùng, tỉnh, lưu vực sông và các quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành có khai thác, sử dụng nước.
Mục tiêu chung của Quy hoạch tài nguyên nước là bảo đảm an ninh tài nguyên nước quốc gia. Quản lý, bảo vệ, sử dụng hiệu quả, bền vững tài nguyên nước; điều hòa, phân phối, bảo vệ tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra đảm bảo cân bằng giữa nhu cầu cho dân sinh, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường trên từng lưu vực sông, từng vùng, từng địa phương, bảo đảm quốc phòng, an ninh, phù hợp với khả năng đáp ứng của tài nguyên nước trong điều kiện biến đổi khí hậu. Hướng tới quản trị tổng hợp ngành nước trên nền tảng công nghệ số; quản lý, sử dụng tài nguyên nước theo chu trình tuần hoàn, bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả, phục vụ đa mục tiêu, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Báo cáo quá trình triển khai lập quy hoạch, ông Châu Trần Vĩnh - Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) cho biết, sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Nhiệm vụ Quy hoạch tại Quyết định số 1748/QĐ-TTg ngày 04 tháng 12 năm 2019, Bộ TN&MT đã phối hợp với các Bộ, cơ quan liên quan triển khai lập quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo đúng quy định của pháp luật về Quy hoạch.
Theo đó, Bộ đã phê duyệt chi tiết nội dung, dự toán dự án Lập quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; phân tích đánh giá tổng quan tình hình phát triển KT- XH, các chủ trương, định hướng phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) liên quan đến khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 trên phạm vi toàn quốc, lưu vực sông, vùng kinh tế trên cơ sở: Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; Chiến lược phát triển KT- XH 10 năm 2021 - 2030 và Nghị quyết về kế hoạch phát triển KT- XH của 63 tỉnh, thành phố trên toàn quốc; các định hướng phát triển KT-XH của các vùng.
Cơ quan chủ trì thực hiện đã phân tích, đánh giá hiện trạng tài nguyên nước và dự báo xu thế diễn biến tài nguyên ;nước trong kỳ quy hoạch bằng 19 bộ mô hình thủy văn cho 19 lưu vực sông (13 LVS lớn, 06 nhóm các LVS ven biển) và cho 6 vùng kinh tế, trên cơ sở số liệu quan trắc đến năm 2020 của 377 trạm thủy văn, tài nguyên nước; 194 trạm khí tượng bề mặt, 755 điểm đo mưa trên toàn quốc và Kịch bản BĐKH cập nhật năm 2020. Đồng thời, phân tích, đánh giá hiện trạng khai thác, sử dụng nước và nhu cầu sử dụng nước trong kỳ quy hoạch, được tổng hợp từ thông tin, số liệu của khoảng 7.490 hồ chứa (dung tích trên 50.000 m3 trở lên); 35.900 công trình khai thác, sử dụng nước khác (trên cơ sở số liệu cung cấp của 63 địa phương và của các Bộ, ngành liên quan); dữ liệu vận hành của hơn 130 hồ chứa trong 11 Quy trình vận hành liên hồ chứa và khoảng 200 hồ chứa khác được cập nhật thường xuyên, liên tục trên trang web của Bộ Tài nguyên và Môi trường; số liệu quan trắc của gần 1.000 điểm quan trắc nước dưới đất.
Bên cạnh đó, phân tích, dự báo nhu cầu sử dụng nước trên phạm vi toàn quốc, theo lưu vực sông và vùng kinh tế; tính toán cân bằng nước (cung-cầu) cho 19 lưu vực sông và 6 vùng kinh tế (theo cả năm, mùa lũ, mùa cạn); Phân tích, xác định, dự báo các thách thức về tài nguyên nước trong kỳ quy hoạch;…
Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cũng cho biết, trong quá trình lập Quy hoạch, Bộ TN&MT đã hợp tác với Tổ chức cộng tác vì nước của Ôt-xtrây-li-a tổ chức nhiều cuộc họp trực tuyến để trao đổi về kinh nghiệm Quốc tế trong việc lập quy hoạch tài nguyên nước cấp quốc gia (như Mỹ, Úc, Ấn Độ, Jordan, Nam Phi, Thái Lan, Phillipins); hỗ trợ trong cách tiếp cận lập quy hoạch cấp quốc gia, cũng như phương pháp lập quy hoạch; các nội dung của Quy hoạch trên cơ sở kinh nghiệm từ Ôt-xtrây-li-a.
Cùng với đó, Bộ TN&MT đã gửi đến 88 đơn vị để lấy ý kiến về dự thảo Quy hoạch (Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam, các Bộ, cơ quan ngang bộ; 63 địa phương và 02 đơn vị khác là VCCI và EVN); các chuyên gia của Ôt-xtrây-li-a, chuyên gia của WB về nước và các chuyên gia khác trong nước; đồng thời cũng đăng lên cổng thông tin điện tử của Bộ TN&MT để lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân khác quan tâm.
Đến nay, Bộ TN&MT đã hoàn thành Hồ sơ Quy hoạch (Báo cáo thuyết minh tổng hợp, tóm tắt Quy hoạch; Dự thảo Tờ trình, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch; Báo cáo tổng hợp tiếp thu, giải trình các ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức liên quan; Báo cáo đánh giá môi trường chiến lược Quy hoạch; Bộ bản đồ quy hoạch) theo quy định.
Báo cáo nội dung chính của Quy hoạch, Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước Châu Trần Vĩnh cho biết, phạm vi nghiên cứu của quy hoạch bao gồm toàn bộ phần diện tích đất liền và diện tích các đảo trên lãnh thổ Việt Nam. Đối tượng của quy hoạch bao gồm: nước mặt và nước dưới đất.
Với quan điểm nước là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, là thành phần cơ bản của hệ sinh thái tự nhiên, liên quan đến mọi hoạt động kinh tế, xã hội của đất nước. Quy hoạch tài nguyên nước phải đảm bảo tầm nhìn dài hạn, định hướng tổng thể, điều hòa, phân phối tài nguyên nước đáp ứng các mục tiêu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, hài hoà với yêu cầu phát triển của từng ngành, từng địa phương và cộng đồng. Quy hoạch tài nguyên nước là cơ sở cho việc lập các quy hoạch ngành quốc gia có khai thác, sử dụng nước, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh. Tài nguyên nước phải được quản lý, sử dụng, phát triển bền vững, tổng hợp, thống nhất theo lưu vực sông, liên vùng, liên tỉnh và được tiếp cận theo nguyên tắc thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; mọi nhu cầu sử dụng nước cho phát triển kinh tế - xã hội phải dựa trên khả năng đáp ứng của nguồn nước, nhằm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, công bằng, hợp lý, đa mục tiêu, bảo vệ môi trường, các hệ sinh thái thủy sinh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Bảo vệ tài nguyên nước cả về số lượng và chất lượng, kết hợp hài hòa giữa bảo vệ với duy trì, phát triển nguồn sinh thủy, nâng cao khả năng trữ nước, phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; hợp tác, chia sẻ công bằng và hợp lý tài nguyên nước xuyên biên giới. Phòng, chống, khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra với phương châm phòng ngừa là chính, giảm thiểu tối đa tổn thất.
Mục tiêu cụ thể của Quy hoạch đến năm 2030 là điều hòa, phân phối công bằng, hợp lý giữa các đối tượng sử dụng nước ở các vùng, các địa phương theo quy hoạch tổng hợp lưu vực sông, đảm bảo chiến lược phát triển kinh tế, an sinh xã hội; đến năm 2025, 100% lưu vực sông lớn, quan trọng có quy hoạch tổng hợp lưu vực sông.
Cùng với đó, đảm bảo nguồn nước góp phần nâng tỷ lệ sử dụng nước sạch cho mục đích sinh hoạt của dân cư đô thị đạt 95% - 100% và 65% dân số nông thôn sử dụng nước sạch đạt chất lượng theo quy chuẩn quy định; kiểm soát cơ bản 90% các hoạt động khai thác, sử dụng nước; nâng cao năng lực khai thác, sử dụng nước và giảm tối đa thất thoát nước từ hệ thống các công trình thủy lợi; giảm tỷ lệ thất thoát trong hoạt động cấp nước xuống 10%; khắc phục hiệu quả tình trạng hạn hán, thiếu nước vào mùa khô ở các lưu vực sông, các vùng khó khăn trong tiếp cận nguồn nước, đặc biệt là các vùng Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, vùng sâu, vùng xa và các đảo; nâng cao hiệu quả, giảm tổn thất sử dụng tài nguyên nước, đạt hiệu suất sử dụng nước tương đương các nước tiên tiến trong khu vực; đánh giá đúng giá trị kinh tế của nước trong các hoạt động sản xuất và phát triển kinh tế-xã hội; Bảo vệ, kiểm soát, ngăn chặn và giảm thiểu tối đa tình trạng gia tăng suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước; hoàn thành việc xác định vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; các ao, hồ, đầm không được san lấp cần phải bảo vệ; xác định các nguồn sinh thủy cần ưu tiên phát triển, bảo vệ; bảo đảm lưu thông dòng chảy, phòng, chống sạt lở bờ, bãi sông, giảm thiểu tác hại do nước gây ra; phòng, chống sụt, lún do khai thác nước dưới đất.; nâng cao mức đảm bảo an ninh tài nguyên nước quốc gia lên nhóm các quốc gia đảm bảo an ninh tài nguyên nước hiệu quả trong khu vực Đông Nam Á; quản trị ngành nước trên nền tảng công nghệ số, đáp ứng yêu cầu quản lý tổng hợp tài nguyên nước theo lưu vực sông và thích ứng với biến đổi khí hậu;...
Tầm nhìn đến năm 2050 của Quy hoạch là nâng chỉ số an ninh tài nguyên nước quốc gia lên nhóm các quốc gia đảm bảo an ninh tài nguyên nước hiệu quả trên thế giới. Hướng tới chủ động về nguồn nước trong mọi tình huống, dự báo, điều tiết nước, phòng ngừa lũ lụt, hạn hán, xâm nhập mặn, ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trên cơ sở phạm vi, quan điểm, mục tiêu và các định hướng của quy hoạch, dự thảo cũng nêu ra 07 nhóm giải pháp chính để thực hiện Quy hoạch, bao gồm: giải pháp về pháp luật, chính sách; về tài chính, đầu tư; về khoa học - công nghệ; về hợp tác quốc tế; về tuyên truyền nâng cao nhận thức; về đào tạo, tăng cường năng lực; về tổ chức và giám sát thực hiện quy hoạch.
Tại cuộc họp, trình bày báo cáo thẩm định Quy hoạch, Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Lê Công Thành cho biết, quy hoạch đã cơ bản cụ thể hóa chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra.
Định hướng của quy hoạch đã tuân thủ theo quan điểm một cách nhất quán, xuyên suốt, rõ ràng và đầy đủ, bám sát mục tiêu quy hoạch. Các định hướng xác định dựa trên cơ sở khoa học và thực tiễn, đầy đủ và khả thi, bám sát mục tiêu đặt ra.
“Trên cơ sở ý kiến góp ý bằng văn bản của các cơ quan, đơn vị, Bộ TN&MT đã tổng hợp ý kiến góp ý của các Bộ, ngành, địa phương và các chuyên gia về hồ sơ Quy hoạch tài nguyên nước, cho thấy về cơ bản các ý kiến góp ý đều thống nhất với hồ sơ Dự thảo Quy hoạch; đồng thời, có ý kiến góp ý bổ sung để hoàn thiện dự thảo Quy hoạch. Bộ TN&MT đã nghiên cứu, tiếp thu và giải trình đầy đủ đối với những ý kiến góp ý của các cơ quan, đơn vị” - Thứ trưởng Lê Công Thành cho biết.
Phát biểu góp ý tại cuộc họp Hội đồng thẩm định, một số ý kiến cho rằng trong quá trình lập quy hoạch tài nguyên nước, thì một số quy hoạch liên quan cũng đang được lập như quy hoạch không gian biển quốc gia, quy hoạch sử dụng đất quốc gia, quy hoạch phòng chống thiên tai và thủy lợi, quy hoạch ĐBSCL,... đề nghị chủ động phối hợp để cập nhật, bảo đảm tính đồng bộ giữa các quy hoạch.
Có ý kiến đề nghị xem xét bổ sung định hướng "đánh giá hiệu quả các công trình chuyển nước đã và đang dự kiến triển khai xây dựng (đặc biệt đối với các công trình chuyển nước giữa các lưu vực sông lớn); nâng cao hiệu quả sử dụng dung tích hồ chứa, kể cả sử dụng phần dung tích chống lũ công trình, dung tích chết trong việc tham gia điều tiết cắt, giảm lũ và cấp nước cho hạ du; chuyển mục đích đối với các công trình không hiệu quả".
Một số ý kiến đề nghị bổ sung mục tiêu như phục hồi nguồn nước sông Hồng trước 2030, giảm lũ cho các lưu vực sông miền Trung, kiểm soát các hoạt động đường thủy có ảnh hưởng lớn đến chất lượng nguồn nước; coi nước lợ, nước mặn là tài nguyên;…
Sau khi thảo luận, Hội đồng đã bỏ phiếu về hồ sơ quy hoạch với kết quả 100% ý kiến thông qua.
Phát biểu kết luận cuộc họp, Phó Thủ tướng Lê Văn Thành nhấn mạnh, đây là Quy hoạch rất quan trọng, độ phức tạp cao, lần đầu tiên tổ chức thực hiện. Quản lý tài nguyên nước không chỉ là vấn đề quốc gia mà đang được cả thế giới quan tâm, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp. Do đó, chúng ta xác định phải hoàn thành nhiệm vụ xây dựng sớm quy hoạch này để bảo đảm mục tiêu quản lý tài nguyên nước hiệu quả.
Phó Thủ tướng nêu rõ, Hội đồng đánh giá cao công tác chuẩn bị, xây dựng Quy hoạch. Bộ Tài nguyên và Môi trường, cơ quan chủ trì soạn thảo đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, tổ chức các hội nghị quốc tế để thảo luận, lấy ý kiến hoàn thiện quy hoạch. Quy hoạch được chuẩn bị công phu, nghiêm túc, theo đúng quy định, quy trình lập quy hoạch.
Về quan điểm của Quy hoạch đã thể hiện rõ được vai trò quan trọng của tài nguyên nước trong phát triển kinh tế - xã hội và cần phải được quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững. Mục tiêu quy hoạch đã thể hiện được các chỉ tiêu cụ thể đảm bảo thực tiễn, khả thi trong quá trình triển khai quy hoạch, được hầu hết các thành viên Hội đồng thẩm định thống nhất. Các định hướng, giải pháp đề xuất có cơ sở khoa học, thực tiễn, khả thi và bám sát mục tiêu đặt ra đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Có thể nói Quy hoạch tài nguyên nước đã lập thể hiện được sự xuyên suốt từ quan điểm, mục tiêu đến định hướng, giải pháp thực hiện đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực hiện Quy hoạch.
Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 đã nhận được ý kiến góp ý của 21/22 Bộ, cơ quan ngang bộ, 57/63 địa phương, Ủy ban TW Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các cơ quan liên quan. Các ý kiến góp ý đã được cơ quan lập quy hoạch nghiêm túc tiếp thu, giải trình, hoàn thiện trong hồ sơ gửi các thành viên Hội đồng. Đa số các nhận xét, đánh giá của 03 Ủy viên phản biện và các Ủy viên Hội đồng đã được cơ quan lập quy hoạch nghiên cứu tiếp thu, giải trình tại cuộc họp.
Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 cơ bản đáp ứng yêu cầu theo quy định của Luật Quy hoạch, Nghị định số 37/2019/NĐ-CP của Chính phủ và nhiệm vụ quy hoạch được duyệt.
Hầu hết các ý kiến của ủy viên phản biện, thành viên Hội đồng đều đánh giá dự thảo quy hoạch mặc dù được lập trong thời gian ngắn nhưng đã thực hiện khối lượng công việc rất lớn, công phu, nghiêm túc, đảm bảo tính kế thừa, có cập nhật, bổ sung một cách khoa học, có tầm nhìn chiến lược, dài hạn, phù hợp với yêu cầu của Luật Quy hoạch và các quy định của pháp luật liên quan.
Tại cuộc họp, Hội đồng thẩm định nhất trí thông qua quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 trên cơ sở tiếp thu ý kiến đóng góp của các thành viên.
Nêu rõ cơ quan chủ trì soạn thảo cần tiếp thu nghiêm túc các ý kiến để hoàn thiện quy hoạch, Phó Thủ tướng lưu ý, Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát lại các số liệu, bảo đảm nhất quán. Quy hoạch phải làm rõ hơn các giải pháp về bảo vệ môi trường, nhất là bảo vệ chất lượng nguồn nước, như giải pháp đối với tình trạng mực nước sông Hồng xuống thấp, giải pháp khắc phục tình trạng úng ngập, hạn hán ở miền Trung, xâm nhập mặn ở ĐBSCL; rà soát bổ sung danh mục các hồ chứa quy mô lớn để dự trữ, điều tiết nước cho cả khu vực. Giải pháp bảo vệ môi trường là hàng đầu, Phó Thủ tướng nêu rõ, giải pháp không chỉ một bộ, ngành mà phải tổng thể.
Phó Thủ tướng đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường tiếp thu tối đa ý kiến để chỉnh sửa, hoàn thiện, xin ý kiến các thành viên Hội đồng trước khi trình cấp có thẩm quyền xem xét phê duyệt.