Đề xuất mô hình Ngân hàng Quỹ đất nông nghiệp tại Việt Nam

Email :
Hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu thì nhu cầu đất nông nghiệp cho việc mở rộng vùng nguyên liệu là rất quan trọng đối với các doanh nghiệp nông nghiệp trong nước cũng như các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại thiếu thông tin và khó tiếp cận với nguồn cung đất nông nghiệp.Chính vì vậy, các chuyên gia thuộc Viện cứu Quản lý đất đai, Tổng cục Quản lý đất đai đã đề xuất xây dựng và hình thành Ngân hàng Quỹ đất nông nghiệp tại Việt Nam.
 

Cần sự liên kết để tận dụng đất đai bỏ hoang

Tính đến ngày 31/12/2018, tổng diện tích đất nông nghiệp của cả nước là 27.289 nghìn ha, chiếm 82,39% tổng diện tích tự nhiên và chiếm gần 88% tổng diện tích đất đã sử dụng. Trong đó, có 90% đất nông nghiệp nước ta là thuộc các hộ nông nghiệp và trang trại, 6% thuộc các doanh nghiệp, số còn lại thuộc các cơ sở khác.

Tại các địa bàn điều tra, nhìn chung diện tích đất nông nghiệp đã giao cho các đối tượng khá lớn. Các tỉnh Thái Bình, Bình Phước, Vĩnh Long, Hà Nam, diện tích đất nông nghiệp đã giao cho các đối tượng sử dụng đạt 100% (tỉnh Thái Bình) hoặc đều trên 97% tổng diện tích đất nông nghiệp. Riêng 2 tỉnh Quảng Bình, Sơn La có diện tích nông nghiệp đã giao cho các đối tượng sử dụng ít hơn, tỷ lệ diện tích nông nghiệp đã giao cho các đối tượng sử dụng chiếm tỷ lệ tương ứng là 84,90% và 63,62% tổng diện tích đất nông nghiệp

Diện tích đất nông nghiệp chủ yếu là do hộ gia đình, cá nhân trong nước sử dụng: Tỉnh Vĩnh Long 99,79% diện tích đất nông nghiệp là do hộ gia đình, cá nhân trong nước sử dụng, tỉnh Thái Bình tỷ lệ này là 90,78 %, các tỉnh Sơn La và Hà Nam đạt trên 80%. Diện tích đất nông nghiệp còn lại là do tổ chức trong nước sử dụng.

Hiện nay, diện tích đất nông nghiệp trong các hộ không có nhu cầu sử dụng vào sản xuất gia tăng. Mặt khác cho thấy, chỉ có hơn 60% nguồn lực xã hội dành cho nông nghiệp và chỉ chưa đầy 1% doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp là quá thấp so với tiềm năng. Tại các địa bàn điều tra diện tích đất hiện có của doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản không nhiều. Như tỉnh Bình Phước có tỷ lệ diện tích đất của doanh nghiệp nông, lâm, thủy sản so với tổng diện tích đất nông nghiệp cao nhất 55.972 ha (chiếm 9,02%), tỉnh Quảng Bình 25.047 ha (chiếm 3,48%), tỉnh Sơn La 14.664 ha (chiếm 1,46%) các tỉnh còn lại có diện tích không nhiều.

Trước tình hình đó, Chính phủ đã thí điểm cho phép chính quyền đứng ra thuê đất của người dân để cho doanh nghiệp thuê lại, mô hình này được triển khai thành công tại nhiều địa bàn của tỉnh Hà Nam. Bước đầu, hình thức doanh nghiệp thuê QSDĐ nông nghiệp của các hộ gia đình, cá nhân để sản xuất nông nghiệp được địa phương đánh giá là giải pháp tương đối phù hợp với điều kiện hiện nay của Việt Nam, bảo đảm cho người nông dân được hưởng lợi từ cho thuê đất mà ít phải đối mặt với các rủi ro.

Mặc dù đạt được nhiều kết quả tích cực nhưng tình hình phát triển hợp tác, liên kết gắn sản xuất với tiêu thụ xây dựng cánh đồng lớn trong thực tiễn vẫn bộc lộ hạn chế, bất cập, có thể kể đến như: Diện tích cánh đồng lớn chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 3,9% so với tổng diện tích cây trồng: Tốc độ mở rộng diện tích liên kết cánh đồng lớn còn chậm. Hình thức doanh nghiệp thuê đất của nông dân còn chiếm tỷ lệ nhỏ vì nhiều khó khăn, chẳng hạn khi thuê đất doanh nghiệp phải hợp đồng với quá nhiều đối tượng với những điều kiện và yêu cầu khác nhau. Người thuê đất và cho thuê đất gặp khó khăn trong việc thỏa thuận với người sử dụng đất về giá thuê và thời hạn cho thuê. Nếu người thuê đất có nhu cầu thuê mảnh đất với diện tích lớn thì phải thỏa thuận với nhiều hộ gia đình, cá nhân khác nhau, nếu một số người dân không có nhu cầu cho thuê hoặc không có sự đồng thuận thì khó thuê được diện tích đất đủ lớn để thực hiện dự án; khó khăn trong việc quản lý quy hoạch khi người sử dụng đất tổ chức hoạt động sản xuất.

Để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam, thực tiễn về quản lý sử dụng đất nông nghiệp và kinh nghiệm tại một số nước cho thấy cần phải thành lập mô hình Ngân hàng Quỹ đất nông nghiệp (NHQĐNN). 

Định hướng đề xuất về hình thức, nội dung và hoạt động mô hình Ngân hàng Quỹ đất nông nghiệp

NHQĐNN là một bộ phận thuộc Tổ chức phát triển quỹ đất, hạn chế thành lập tổ chức mới và sử dụng tối đa nhân lực hiện có của Tổ chức Phát triển quỹ đất để thực hiện các nhiệm vụ của NHQĐNN.

 Việc thành lập NHQĐNN sẽ phụ thuộc vào văn hóa, đặc thù, thực trạng sử dụng đất và nhu cầu của từng địa phương.

 NHQĐNN là một doanh nghiệp cung ứng dịch vụ công ích: Theo Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về hoàn thiện cơ chế, chính sách, tăng cường năng lực của Tổ chức phát triển quỹ đất, từng bước chuyển Tổ chức Phát triển quỹ đất sang mô hình doanh nghiệp phát triển quỹ đất; phát triển đa dạng các loại hình dịch vụ về đất đai”;

 NHQĐNN sẽ từng bước thí điểm hoạt động tại một số địa phương. NHQĐNN tạo quỹ đất theo đặt hàng của nhà đầu tư và là trung gian để thực hiện các giao dịch về đất nông nghiệp: NHQĐNN là trung gian giữa chủ sử dụng đất và nhà đầu tư để thực hiện các giao dịch về đất nông nghiệp (thuê đất, chuyển nhượng, góp vốn, thuê đất công ích của UBND xã) và có cơ chế quản lý đối với việc thực hiện các giao dịch này.

 Hoạt động của NHQĐNN phải có sự liên kết và tham gia của nhiều ngành có liên quan: NHQĐNN phải đồng bộ và hệ thống thể hiện sự thống nhất trong hệ thống NHQĐNN nói riêng, thống nhất giữa các giai đoạn và các cơ quan, đơn vị có liên quan.

 Hoạt động của mô hình NHQĐNN cần bảo đảm hài hòa giữa lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư.

NHQĐNN trực thuộc Tổ chức PTQĐ,  địa phương giữ vai trò chủ đạo, Trung ương hỗ trợ và giám sát việc thực hiện, từng cấp (Trung ương, tỉnh, huyện) sẽ có các bộ phận quản lý, thực hiện với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau của NHQĐNN. Cơ chế quản lý của mô hình NHQĐNN cụ thể như sau:

Dự kiến hình thức hoạt động của mô hình NHQĐNN tại các cấp Trung ương, địa Phương (gồm cấp tỉnh và cấp huyện). 

Ngân hàng có chức năng tạo lập, phát triển, quản lý, khai thác quỹ đất nông nghiệp; nhận thuê, cho thuê; làm trung gian thực hiện các giao dịch về đất nông nghiệp khác (chuyển nhượng; nhận góp vốn bằng QSDĐ nông nghiệp của các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; thuê đất công ích của UNND xã; chuyển đổi QSDĐ nông nghiệp).

Việc thành lập NHQĐNN nằm trong lộ trình hoàn thiện quy định pháp luật về cơ chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, cho phép tập trung ruộng đất để sản xuất lớn. NHQĐNN đóng vai trò trung gian giữa chủ sử dụng đất và Nhà đầu tư để thực hiện các giao dịch về đất nông nghiệp. Ngân hàng tạo quỹ đất để cho các nhà đầu tư thuê và có cơ chế quản lý đối với các giao dịch về đất nông nghiệp. Các giao dịch về đất nông nghiệp sẽ thuận tiện hơn, do chính quyền đứng ra thuê đất, nhận chuyển nhượng QSDĐ, nhận góp vốn bằng QSDĐ… thì sẽ làm theo quy hoạch, dễ tạo đồng thuận trong dân.