Sửa Luật Tài nguyên nước - Đảm bảo tính thống nhất, tránh sự chồng chéo

16/03/2023
Xem cỡ chữ - + Đọc bài viết

Theo chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) sẽ được Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Năm và dự kiến thông qua tại Kỳ họp thứ Sáu năm 2023. Việc xây dựng Luật cần đảm bảo các chính sách về tài nguyên nước còn cần thống nhất, tránh chồng chéo các với luật khác. Hiện dự án Luật đang được lấy ý kiến rộng rãi.

Theo hồ sơ dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), dự luật gồm 10 chương và 88 điều. Dự thảo Luật chú trọng sửa đổi các quy định nhằm mục đích phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước từ cấp Trung ương và địa phương nhằm khắc phục sự chồng chéo, xung đột pháp luật...

Tại Hội thảo lấy ý kiến góp ý cho dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội tổ chức mới đây, nhiều vấn đề về thể chế, quản lý tài nguyên nước đã được bàn thảo.

Trao trách nhiệm rõ hơn cho các thành phần trong xã hội

Cơ bản nhất trí việc sửa đổi, bổ sung Luật Tài nguyên nước năm 2012, PGS.TS. Ngô Lê Long, Trường Đại học Thủy lợi nhận định, cụm từ “tổ chức, cá nhân” trong dự thảo Luật xuất hiện rất nhiều lần, điều này chứng tỏ dự luật đã hướng việc thực hiện đến người dân và cộng đồng, trao trách nhiệm rõ hơn cho các thành phần trong xã hội. Tên gọi của dự thảo Luật đã bao hàm và phù hợp với phạm vi điều chỉnh cũng như các nội dung được đề cập trong dự thảo Luật.

Tuy nhiên, PGS.TS. Ngô Lê Long cũng chỉ rõ, nước khoáng, nước nóng thiên nhiên được xem là một loại khoáng sản nên thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật Khoáng sản. Do đó, để tránh chồng chéo, không nên thuộc phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Các vấn đề liên quan trong quản lý phòng, chống hạn hán thiếu nước, lũ lụt, ngập úng nhân tạo; phòng, chống sạt lở lòng, bờ, bãi sông, hồ, cần xem xét, lồng ghép để việc triển khai thực hiện phù hợp với Luật Phòng, chống thiên tai.

Liên quan đến các công trình thủy lợi thực hiện nhiệm vụ khai thác tài nguyên nước phục vụ sản xuất nông nghiệp, có ý kiến cho rằng, chủ yếu là các trạm bơm và cống lấy nước. Các công trình này đã được xác định rõ về đối tượng sử dụng nước, thời điểm lấy nước, vị trí lấy nước, lưu lượng cấp nước và hoạt động theo Quy trình vận hành đã được phê duyệt. Do đó, các ý kiến đề nghị cơ quan soạn thảo nghiên cứu đối với các công trình thủy lợi phục vụ sản xuất nông nghiệp được xây dựng theo quy hoạch thì không phải đăng ký, cấp phép; từ đó, bổ sung nội dung này vào Khoản 2 Điều 47 và bãi bỏ các nội dung có liên quan trong dự thảo Luật (như Khoản 4 Điều 87…).

Đảm bảo an ninh nguồn nước

Góp ý cho dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Phương Tuấn cho rằng, vấn đề an ninh nguồn nước của nước ta đang phải đổi mặt với một số thách thức, trước hết là nguồn nước phân bổ không đều theo không gian và thời gian. Tài nguyên nước mặt của Việt Nam phân bố không đều cả về không gian và thời gian. Sự biến đổi theo thời gian của lượng mưa năm biểu hiện ở sự dao động giữa các năm và phân phối không đều trong năm. Việt Nam có lượng mưa trung bình năm khoảng 1.950mm, thuộc số quốc gia có lượng nước mưa lớn trên thế giới. Về không gian, tài nguyên nước dưới đất phân bố rất không đều: khá phong phú ở khu vực Đông Bắc Bộ, Đồng bằng Nam Bộ; rất thấp ở Đồng Nam Bộ, Nam Trung Bộ và có xu thế suy giảm.

Bên cạnh đó, dưới áp lực từ sự gia tăng dân số, phát triển kinh tế ở nhiều vùng nên nhiều diện tích rừng tự nhiên, rừng phòng hộ đã bị suy giảm. Tỷ trọng diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn là rừng non, rừng nghèo và nghèo kiệt có trữ lượng dưới 50m3 còn chiếm tỷ lệ cao so với tổng diện tích rừng hiện có (khoảng 30%), hiệu quả tạo nguồn sinh thủy hạn chế. Hầu hết diện tích rừng đầu nguồn phân bố ở vùng cao, xa nên công tác quản lý, bảo vệ rừng gặp nhiều khó khăn.

Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Nguyễn Phương Tuấn đề nghị rà soát, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách liên quan đến nước theo hướng quản lý nhu cầu, kinh tế hoá, xã hội hóa, chuyển đổi số, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương tăng cường phân cấp, giảm thủ tục hành chính, minh bạch; huy động nguồn lực, tạo điều kiện, động lực cho tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư, quản lý, vận hành kết cấu hạ tầng ngành nước, lọc nước biển, xử lý nước thải; xây dựng và thực hiện cơ chế khuyến khích người dân sử dụng nước tiết kiệm, nâng cao hiệu quả sử dụng nước, tái sử dụng nước, bảo vệ môi trường nước. 

Đóng góp ý kiến vào việc đảm bảo an ninh nguồn nước sinh hoạt, ông Nguyễn Công Hàm - Phó Giám đốc Thường trực Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Tuyên Quang cho rằng, việc quản lý tài nguyên nước được thực hiện chủ yếu theo quy định của Luật Tài nguyên nước, Luật Bảo vệ môi trường. Việc sản xuất nước sạch, phân phối, tiêu thụ nước sạch được thực hiện theo quy định của Nghị định về sản xuất, cung cấp nước sạch do Bộ Xây dựng và Ủy ban nhân dân các cấp chỉ đạo hoặc quy định tại Luật Thủy lợi nếu việc khai thác nước này nằm trong hệ thống công trình thủy lợi. Hơn nữa, việc quản lý, giám sát chất lượng sạch sau quá trình sản xuất cho đến cấp nước cho các hộ dân được thực hiện theo quy định về quy chuẩn kỹ thuật quốc gia và quy định kiểm tra, giám sát chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt của Bộ Y tế. Do vậy, còn nhiều khó khăn trong việc đảm bảo an ninh nguồn nước sinh hoạt nên đề nghị cần có sự điều chỉnh trong dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).

Đảm bảo quyền khai thác sử dụng tài nguyên nước của các nhân, tổ chức

Tham gia ý kiến về dự án Luật này, nhiều chuyên gia cho rằng, việc ghi nhận quyền tài sản đối với quyền khai thác sử dụng tài nguyên nước của các cá nhân, tổ chức trong Dự thảo hiện còn rất yếu. Theo đó, Dự thảo mới chỉ quy định tổ chức, cá nhân khai thác tài nguyên nước thuộc trường hợp phải nộp tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước còn được chuyển nhượng quyền khai thác tài nguyên nước theo quy định của Chính phủ. Quy định này hạn chế rất nhiều quyền tài sản của tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng tài nguyên nước hợp pháp, giảm khả năng phân bổ và tận dụng các nguồn lực để sản xuất kinh doanh. 

Về vấn đề này, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban pháp chế Liên đoàn Thương mại, Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đề nghị cơ quan soạn thảo điều chỉnh quy định theo hướng: Mọi tổ chức, cá nhân khai thác sử dụng tài nguyên nước hợp pháp đều được ghi nhận quyền, bất kể có nộp tiền hay không nộp tiền cấp quyền, bất kể thuộc diện được cấp phép hay diện được miễn đăng ký, cấp phép. Quyền khai thác sử dụng tài nguyên nước của các nhân, tổ chức là quyền tài sản theo pháp luật dân sự, theo đó bao gồm đầy đủ các quyền như chiếm hữu, sử dụng, định đoạt, chuyển nhượng, sử dụng làm tài sản bảo đảm và các quyền tài sản khác.

Điều 48 của Dự thảo quy định về việc đăng ký, cấp phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước và giao cho Chính phủ quy định chi tiết. Nhiều ý kiến cho rằng, đây là điều khoản hết sức quan trọng vì nó là cơ sở để xác lập quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân, bao gồm các nghĩa vụ làm thủ tục và nghĩa vụ tài chính. Các chuyên gia đề nghị cơ quan soạn thảo quy định trực tiếp trong luật, mà không giao Chính phủ quy định ở cấp Nghị định, nhằm bảo đảm tính minh bạch, ổn định của pháp luật.

Có cơ chế khuyến khích xã hội hóa ngành nước

Tại các phiên thảo luận, các đại biểu chỉ ra rằng, mức độ ô nhiễm nguồn nước đang gia tăng. Ô nhiễm nguồn nước chủ yếu tập trung ở vùng trung lưu và hạ lưu các lưu vực sông (Nhuệ, Đáy, Cầu, Đồng Nai), hệ thống công trình thủy lợi (Bắc Hưng Hải, Bắc Đuống…).Nguồn gây ô nhiễm từ nước thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, làng nghề, y tế và chất thải rắn không được kiểm soát, trong đó, nước thải sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp chiếm tỷ lệ lớn.

Chất lượng nguồn nước dưới đất tại một số vùng trong thời gian gần đây đang phải đối mặt với nhiễm mặn và ô nhiễm. Tình trạng nước dưới đất bị mặn, nhiễm mặn diễn ra phổ biến ở các khu vực đồng bằng ven biển Bắc Bộ và Nam Bộ.Ngoài ra, hiện tượng ô nhiễm kim loại nặng và Amoni trong nước dưới đất đã ghi nhận ở hầu hết các địa phương có khai thác, sử dụng nước dưới đất lớn.

Nhiều ý kiến đề nghị chú trọng vào huy động nguồn lực, ngân sách nhà nước tiếp tục ưu tiên đầu tư các công trình khó huy động nguồn lực xã hội, xây dựng công trình lớn, quan trọng đặc biệt, công trình ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng khan hiếm nước, vùng bị ảnh hưởng lớn của biển đổi khí hậu.

Theo các đại biểu, cần sử dụng vốn đầu tư công mang tính dẫn dắt, là vốn mồi để thu hút lan tỏa vốn xã hội, hỗ trợ cho các dự án kém hấp dẫn nhưng có hiệu quả cho các vùng khó khăn nhằm chia sẻ rủi ro với các nhà đầu tư. Thu hút nguồn vốn ODA để đầu tư công trình trữ nước, liên kết, kết nối nguồn nước, công trình đảm bảo an sinh xã hội. 

Đề cập về cơ chế khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước, ông Phùng Kim Sơn - Phó Giám đốc Sở TN&MT tỉnh Sơn La cho rằng, việc triển khai thực hiện các đề án, dự án, nhiệm vụ, chương trình thuộc lĩnh vực tài nguyên nước theo quy định của Luật còn gặp nhiều khó khăn do một số nhiệm vụ không có hướng dẫn chi tiết, cụ thể quy trình, định mức kinh tế kỹ thuật dẫn đến kéo dài thời gian lập, thẩm định, triển khai thực hiện; nguồn kinh phí chủ yếu là ngân sách Nhà nước, chưa có cơ chế rõ ràng cho khuyến khích việc xã hội hóa để triển khai nội dung này.

Ông Phùng Kim Sơn đề nghị xem xét, bổ sung nội dung “có cơ chế khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện các hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước” vào dự thảo Luật và đề xuất nội dung này nên do Nhà nước thực hiện để đảm bảo “an ninh nguồn nước”.